Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng của Đảng ta

                                                             ThS. Lê Thị Thúy An        
                                                         Giảng viên Khoa Lý luận cơ sở

          1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội

         1.1. Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăng-ghen

          Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản trong thời C.Mác và Ph.Ăng-ghen dựa trên nền đại công nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường tự do cạnh tranh, do đó khi trả lời câu hỏi: Cuộc cách mạng đó có thể xảy ra trong riêng một nước nào đó không? Ban đầu Ph.Ăng-ghen cho rằng điều đó là không thể. Nguyên nhân là: “Đại công nghiệp do đã tạo nên thị trường thế giới nên đã nối liền tất cả các dân tộc trên trái đất lại với nhau, nhất là các dân tộc văn minh, khiến cho mỗi một dân tộc đều phụ thuộc vào tình hình xảy ra ở dân tộc khác. Sau nữa, đại công nghiệp đã san bằng sự phát triển xã hội ở trong tất cả các nước văn minh, khiến cho ở khắp nơi, giai cấp tư sản và giai cấp vô sản đã trở thành hai giai cấp có tác dụng quyết định trong xã hội và cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp đó đã trở thành cuộc đấu tranh chủ yếu của thời đại chúng ta. Vì vậy, cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa không những sẽ có tính chất dân tộc mà sẽ đồng thời xảy ra ở trong tất cả các nước văn minh, tức là ít nhất, ở Anh, Mỹ, Pháp và Đức. Trong mỗi một nước đó, cách mạng cộng sản chủ nghĩa sẽ phát triển nhanh hay chậm, là tùy ở chỗ nước nào trong những nước đó có công nghiệp phát triển hơn, tích lũy được nhiều của cải hơn và có nhiều lực lượng sản xuất hơn. Cho nên ở Đức, cách mạng cộng sản chủ nghĩa sẽ thực hiện chậm hơn và khó khăn hơn, còn ở Anh thì nhanh hơn và dễ dàng hơn. Cách mạng cộng sản chủ nghĩa cũng có ảnh hưởng rất lớn đến các nước khác trên thế giới, nó sẽ làm thay đổi hoàn toàn và thúc đẩy cực kỳ nhanh chóng tiến trình phát triển trước kia của các nước đó. Nó là một cuộc cách mạng có tính chất toàn thế giới và vì vậy nó sẽ có một vũ đài toàn thế giới”1.

          Tuy nhiên, sau khi bổ sung nghiên cứu thực tiễn phát triển của nước Nga trong thế kỷ XIX, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã có điều chỉnh quan điểm về khả năng thắng lợi chủ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước phát triển tầm trung bình và thấp: “Nếu như nước Nga tiếp tục đi theo con đường mà nó đã đi từ năm 1861, nó sẽ bỏ lỡ cơ hội thuận lợi nhất mà lịch sử chưa bao giờ đem lại cho một dân tộc, và sẽ phải trải qua mọi nỗi bất hạnh tai hại của chế độ tư bản chủ nghĩa”2, từ đó, “nếu cách mạng Nga là tín hiệu của cuộc cách mạng vô sản ở phương Tây và nếu cả hai cuộc cách mạng ấy bổ sung cho nhau thì chế độ sở hữu công xã về ruộng đất ở Nga hiện nay có thể là điểm xuất phát của một sự tiến triển cộng sản chủ nghĩa”3.

         C.Mác và Ph.Ăng-ghen khẳng định: “không những có thể mà còn chắc chắn là sau thắng lợi của giai cấp vô sản và sau việc xã hội hóa những tư liệu sản xuất ở các dân tộc Tây Âu thì những nước vừa mới bước vào con đường sản xuất tư bản chủ nghĩa và vẫn còn có các chế độ thị tộc nguyên vẹn hoặc những tàn dư của chế độ thị tộc, có thể sử dụng những tàn dư đó của sở hữu chung và những tập quán nhân dân tương ứng làm công cụ mạnh mẽ để rút ngắn một cách đáng kể quá trình phát triển của mình lên xã hội xã hội chủ nghĩa và có thể tránh được phần lớn những đau khổ và những cuộc đấu tranh mà ở Tây Âu chúng ta phải trải qua. Nhưng một điều kiện tất yếu để làm được việc đó là tấm gương và sự ủng hộ tích cực của phương Tây cho tới nay vẫn còn là tư bản chủ nghĩa. Chỉ khi nào nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã bị đánh bại tại quê hương của nó và ở những nước nó đã phát đạt, chỉ khi nào những nước lạc hậu qua tấm gương ấy mà biết được rằng "việc đó đã được tiến hành như thế nào", những lực lượng sản xuất công nghiệp hiện đại, với tư cách là sở hữu công cộng, đã được sử dụng như thế nào để phục vụ toàn thể xã hội, - thì những nước lạc hậu ấy mới có thể bước vào con đường phát triển rút ngắn như vậy. Như thế thắng lợi của những nước ấy sẽ được đảm bảo. Và điều đó không chỉ đúng với nước Nga, mà với tất cả các nước đang ở trong giai đoạn phát triển tiền tư bản chủ nghĩa. Song ở nước Nga, điều đó sẽ là dễ hơn vì ở đấy một bộ phận dân cư của nó tiếp thu được những kết quả tinh thần của sự phát triển tư bản chủ nghĩa”4.

         Như vậy, tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội dựa trên cơ sở hoàn toàn khách quan, bắt nguồn từ sự phát triển của lực lượng sản xuất trong chủ nghĩa tư bản. Đồng thời, theo sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, khả năng đi lên chủ nghĩa xã hội đã có sự thay đổi: cách mạng vô sản có khả năng thắng lợi không những ở các nước phát triển hàng đầu của chủ nghĩa tư bản mà cả ở các nước kém phát triển hơn. Một khi cách mạng xã hội chủ nghĩa đã thắng lợi ở một bộ phận của thế giới thì cũng hình thành khả năng đi lên chủ nghĩa xã hội từ các dân tộc kém phát triển hơn. Tuy nhiên, “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”5

         1.2. Quan điểm của V.I.Lênin

          Kiên định chủ nghĩa Mác, V.I.Lênin cho rằng, lý luận của C.Mác “là lý luận lần đầu tiên đã biến chủ nghĩa xã hội từ không tưởng thành khoa học; lý luận đó đã dựng lên những cơ sở vững chắc cho khoa học ấy và vạch rõ con đường mà chúng ta cần phải theo, để phát triển khoa học đó thêm nữa và phát huy nó với đầy đủ chi tiết… Lý luận đó chỉ rõ toàn bộ sự phát triển của chủ nghĩa tư bản có xu hướng làm cho sản xuất lớn gạt bỏ sản xuất nhỏ như thế nào và đã tạo ra như thế nào những điều kiện khiến có thể và cần phải tổ chức xã hội theo phương thức xã hội chủ nghĩa”6. Tuy nhiên V.I.Lênin khẳng định: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống. Chúng tôi nghĩ rằng những người xã hội chủ nghĩa ở Nga đặc biệt cần phải tự mình phát triển hơn nữa lý luận của Mác, vì lý luận này chỉ đề ra những nguyên lý chỉ đạo chung, còn việc áp dụng những nguyên lý ấy thì, xét riêng từng nơi, ở Anh không giống ở Pháp, ở Pháp không giống ở Đức, ở Đức”7.

          Phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăng-ghen về sự phát triển của chủ nghĩa tư bản từ cuối thế kỷ XIX dưới hình thái chủ nghĩa đế quốc, V.I.Lênin cho rằng: “phải coi chủ nghĩa đế quốc là chủ nghĩa tư bản quá độ, hay nói cho đúng hơn, chủ nghĩa tư bản đang hấp hối”8, “Chủ nghĩa đế quốc là đêm trước của cuộc cách mạng xã hội của giai cấp vô sản. Điều này đã được xác nhận từ năm 1917, trên quy mô toàn thế giới”9.

          Từ phân tích bản chất và sự phát triển của chủ nghĩa đế quốc trên nền tảng của chủ nghĩa Mác, V.I.Lênin cũng chỉ ra rằng, sự phát triển của hình thức mới của quan hệ sản xuất TBCN dưới hình thái CNTB độc quyền nhà nước vừa đẩy nhanh sự phát triển của CNTB nói chung, lại vừa làm cho sự phát triển ấy ngày càng trở nên không đều trên phạm vi toàn thế giới.  Trong điều kiện chủ nghĩa tư bản đã chuyển hóa thành chủ nghĩa đế quốc, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, theo V.I.Lênin, đã trở thành bộ phận của phong trào cộng sản. Do đó, “người ta chống mặt trận đã được sắp xếp thống nhất của các cường quốc đế quốc chủ nghĩa, của giai cấp tư sản đế quốc chủ nghĩa, của những người đế quốc ‐ xã hội, và ủng hộ việc lợi dụng tất cả các phong trào dân tộc chống chủ nghĩa đế quốc, nhằm làm lợi cho cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống mặt trận chung của chủ nghĩa đế quốc càng thuần túy thì dĩ nhiên là nguyên tắc quốc tế chủ nghĩa: ʺmột dân tộc mà đi áp bức các dân tộc khác thì không thể có tự doʺ, lại càng quan trọng thêm”10.

         Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga năm 1917 đã mở ra thời đại mới, cơ hội cho các nước thuộc địa kém phát triển có thể đi lên chủ nghĩa xã hội.  V.I.Lênin đã nêu ra vấn đề và trả lời: “đối với các dân tộc lạc hậu hiện nay đang trên con đường giải phóng và sau chiến tranh đã có một bước tiến bộ, mà khẳng định rằng nền kinh tế quốc dân của những dân tộc đó nhất định phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, chúng ta có cho như vậy là đúng hay không? Chúng tôi cho rằng không đúng. Nếu giai cấp vô sản cách mạng chiến thắng tiến hành tuyên truyền một cách có hệ thống trong các dân tộc đó và các chính phủ xô‐viết giúp đỡ họ bằng mọi cách, mà trong lúc đó còn cho rằng giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa là không thể tránh được đối với các dân tộc lạc hậu, thì không đúng. Trong tất cả các nước thuộc địa và các nước lạc hậu, không những chúng ta phải đào tạo những cán bộ độc lập, xây dựng nên những tổ chức đảng, không những phải tiến hành tuyên truyền ngay từ giờ cho việc tổ chức các Xô‐viết nông dân và cố gắng làm cho các Xô‐viết đó phù hợp với những hoàn cảnh tiền tư bản chủ nghĩa, mà Quốc tế cộng sản còn phải xác định và chứng minh trên lý luận cho một nguyên tắc là: với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ xô‐viết, và qua những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản, không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”11. Theo V.I.Lênin, “Không thể chối cãi được rằng giai cấp vô sản của những nước tiên tiến có thể và phải giúp đỡ quần chúng lao động ở những nước lạc hậu, và khi giai cấp vô sản chiến thắng của các nước cộng hòa xô‐viết chìa tay cho những quần chúng đó và có khả năng ủng hộ họ thì các nước lạc hậu đó có thể ra khỏi giai đoạn phát triển hiện nay của họ”12.

         Để thực hiện thành công cách mạng xã hội chủ nghĩa cần phải nắm chắc thời cơ cách mạng. V.I.Lênin đã chỉ ra ra ba dấu hiệu chính của một tình thế cách mạng. Kiên định, bổ sung phát triển chủ nghĩa Mác, V.I.Lênin nhấn mạnh: “Từ chủ nghĩa đế quốc ngày nay chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa ngày mai, nhân loại cũng sẽ trải qua những con đường có muôn màu muôn vẻ như thế. Tất cả các dân tộc đều sẽ đi đến chủ nghĩa xã hội, đó là điều không tránh khỏi, nhưng tất cả các dân tộc đều tiến tới chủ nghĩa xã hội không phải một cách hoàn toàn giống nhau; mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình vào hình thức này hay hình thức khác của chế độ dân chủ, vào loại này hay loại khác của chuyên chính vô sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ khác của việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các mặt khác nhau của đời sống xã hội”13.

         Vận dụng vào xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga sau Cách mạng tháng Mười năm 1917, đặc biệt trong thực hiện chính sách kinh tế mới, từ nhận thức đúng đắn tính chất quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nền kinh tế, V.I.Lênin nhấn mạnh: “danh từ “nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa xô-viết” có nghĩa là Chính quyền xô-viết quyết tâm thực hiện bước chuyển lên chủ nghĩa xã hội, chứ hoàn toàn không có nghĩa là đã thừa nhận chế độ kinh tế hiện nay là chế độ xã hội chủ nghĩa”14. Để vận dụng hiệu quả học thuyết giá trị thặng dư vào xây dựng chủ nghĩa xã hội phải thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần[41], trong đó, thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa với tư cách là cơ sở quyết định cho chế độ mới trước hết cần phải tập trung phát triển đại công nghiệp với “trình độ kỹ thuật hiện đại và có khả năng cải tạo nông nghiệp”15.  Tuy nhiên, trong điều kiện thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa còn non yếu, các thành phần kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ chiếm ưu thế và hoạt động tự phát, V.I.Lênin khẳng định việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng, bỏi lẽ, “Chủ nghĩa tư bản là xấu so với chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản là tốt so với thời trung cổ, với nền tiểu sản xuất, với chủ nghĩa quan liêu do tình trạng phân tán của những người tiểu sản xuất tạo nên. Vì chúng ta chưa có điều kiện để chuyển trực tiếp từ nền tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội, bởi vậy, trong một mức độ nào đó, chủ nghĩa tư bản là không thể tránh khỏi, nó là sản vật tự nhiên của nền tiểu sản xuất và trao đổi; bởi vậy, chúng ta phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản (nhất là bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước) làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng lực lượng sản xuất lên”16. Từ đó, V.I.Lênin nhấn mạnh: “Chúng ta không nên sợ thú nhận rằng ở đây chúng ta có thể và phải học tập nhiều nữa ở bọn tư bản”17. Tuy nhiên, việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước để xây dựng chủ nghĩa xã hội là có giới hạn.

         Một trong những phát triển sáng tạo của V.I.Lênin trong vận dụng học thuyết giá trị thặng dư vào xây dựng chủ nghĩa xã hội là phải mạnh dạn khôi phục và phát triển quan hệ hàng hóa, tiền tệ, coi trao đổi hàng hóa là đòn xeo chủ yếu của chính sách kinh tế mới nhằm giải quyết quan hệ kinh tế giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa giai cấp vô sản và nông dân và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Để đảm bảo khôi phục và phát huy vai trò của lưu thông hàng hóa, V.I.Lênin cho rằng, phải đánh giá đúng vai trò của vàng, phải ổn định đồng rúp, không phải chỉ dựa vào lý luận, mà phải đặc biệt coi trọng thực tiễn, thậm chí, đối với nhận thức những điều kiện để ổn định đồng rúp thì “thực tiễn quan trọng hơn tất cả mọi cuộc tranh luận về lý luận ở trên đời”18.

         Sử dụng sản xuất hàng hóa và quan hệ hàng hóa - tiền tệ không những giúp là phương thức để giải quyết quan hệ lợi ích giữa các chủ thể kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế khác nhau trong nước mà còn giúp cho phát triển quan hệ kinh tế với nước ngoài, đặc biệt là các nước tư bản phát triển. Cơ sở của quan hệ kinh tế với các nước tư bản phát triển, trước hết về thương mại, là lợi ích kinh tế và những mâu thuẫn lợi ích kinh tế giữa các nước đó. Vì vậy, theo V.I.Lênin, “cho đến khi chủ nghĩa xã hội vĩnh viễn thắng lợi trên toàn thế giới, … phải biết lợi dụng những sự đối lập và những mâu thuẫn giữa bọn đế quốc chủ nghĩa”19

         Tóm lại, các nhà kinh điển Mác - Lênin đã luận giải khoa học về tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chỉ ra tính quy luật chung cần phải kiên định, đồng thời nhấn mạnh tính đặc thù của xây dựng chủ nghĩa xã hội trong từng điều kiện lịch sử cụ thể ở từng quốc gia dân tộc, từ đó tạo cơ sở khoa học cho không ngừng bổ sung, phát triển và vận dụng sáng tạo đối với các thế hệ sau.

          2. Quan điểm về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng

          Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được Đảng xác định, bổ sung và hoàn thiện qua các kỳ đại hội. Tại Đại hội lần thứ XIII, Đảng tiếp tục bổ sung, phát triển, cụ thể hóa hơn các mục tiêu của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực cụ thể:

         Một là, về mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội

         Trước hết, phải khẳng định đây là vấn đề khó khăn, phức tạp. Sau khi đất nước thống nhất, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta chưa nhận thức đầy đủ về thời kỳ quá độ. Những mục tiêu, kế hoạch được đề ra về cơ bản không đạt, đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, buộc Đảng phải nhận thức lại và đề ra đường lối đổi mới.

         Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới, đến Đại hội lần thứ VIII (năm 1996), Đảng tổng kết và nhận định: đất nước đã ra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế - xã hội, cho phép kết thúc chặng đường đầu của thời kỳ quá độ, bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phấn đấu đến năm 2020 xây dựng nước ta về cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Mục tiêu này tiếp tục được khẳng định qua các kỳ Đại hội lần thứ IX, X, XI của Đảng. Tổng kết 30 năm đổi mới, mục tiêu đến năm 2020 xây dựng nước ta về cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt được, Đại hội lần thứ XII của Đảng (năm 2016) xác định lại: phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

         Cụ thể hóa mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)gọi tắt là Cương lĩnh năm 2011 và Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng. Tại Đại hội lần thứ XIII, Đảng xác định phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, xây dựng nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với lộ trình cụ thể: đến năm 2025, kỷ niệm 100 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

         Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã xác định mục tiêu theo cách tiếp cận mới về trình độ phát triển, trình độ công nghiệp và thu nhập bình quân đầu người. Đây là tổng hợp cách tiếp cận của Đảng trong hơn 35 năm đổi mới và trên cơ sở đánh giá, phân loại các nước theo thông lệ quốc tế, được các tổ chức quốc tế, như Liên hợp quốc, Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ quốc tế, Tổ chức Thương mại thế giới, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế, cùng hầu hết các nước trên thế giới sử dụng. Vì vậy, những mục tiêu cụ thể được xác định lần này có đầy đủ cơ sở khoa học và thực tiễn, phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước.

         Hai là, về phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội

         - Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Kể từ Đại hội lần thứ VIII, Đảng xác định bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Quan điểm này tiếp tục được các kỳ Đại hội lần thứ IX, X, XI, XII của Đảng bổ sung, phát triển. Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định và có sự bổ sung, cụ thể hơn. Đó là tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Điểm mới này là công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải dựa trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, tận dụng tốt cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 để phát triển bứt phá trong một số ngành và lĩnh vực. Trong đó, chú trọng “Đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng, phát triển, làm chủ công nghệ hiện đại; phát triển một số sản phẩm chủ lực có thương hiệu mạnh, có uy tín trong khu vực và thế giới. Nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực của đất nước, tạo cơ sở đẩy mạnh chuyển đổi số nền kinh tế quốc gia và phát triển kinh tế số”20. Đồng thời, ưu tiên phát triển những ngành công nghiệp công nghệ cao, thân thiện với môi trường, nhằm bảo đảm phát triển nhanh và bền vững.

         - Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhận thức về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được bắt đầu từ khi đất nước bước vào đổi mới và tiếp tục được bổ sung qua các kỳ đại hội, hội nghị của Đảng. Đến nay, cơ bản đã có sự thống nhất chung trong nhận thức. Vì vậy, Đại hội lần thứ XIII của Đảng yêu cầu thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là “nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”21. Theo đó, việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường là một trong ba khâu đột phá chiến lược được Đảng ta xác định từ Đại hội lần thứ XI. Điểm mới lần này được xác định nội hàm rộng và cụ thể hơn, đó là “hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”22.

         - Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục nhất quán các phương hướng và có bổ sung mới về phát triển văn hóa, con người, quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Đó là “xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới”23. Trong bối cảnh đất nước ngày càng hội nhập sâu rộng vào tiến trình phát triển của thế giới, thì việc gắn bó chặt chẽ giữa hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người với hệ giá trị gia đình Việt Nam là nhận thức mới, trong đó đặt hệ giá trị gia đình vào vị thế vốn có của nó, với tư cách là tế bào của xã hội, là hạt nhân nuôi dưỡng, lưu giữ và phát huy các giá trị quốc gia, giá trị văn hóa, con người Việt Nam. Đối với các vấn đề xã hội, Đại hội lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, an ninh con người”24. Điều này bảo đảm sự phát triển bền vững của con người và xã hội, thể hiện bản chất của chế độ ta là lấy con người làm mục tiêu của sự phát triển.

         - Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Quốc phòng, an ninh là lĩnh vực vô cùng quan trọng và là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Qua mỗi kỳ đại hội, phương hướng xây dựng quốc phòng, an ninh tiếp tục được bổ sung những nội dung mới phù hợp với từng giai đoạn. Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định phương hướng, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh có mặt đậm nét và có nhiều điểm mới. Đó là: “Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại”25. Đồng thời, xác định rõ hơn nhiệm vụ nghiên cứu, phát triển lý luận về quốc phòng, an ninh; triển khai thực hiện các chiến lược về quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới. 

         - Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.  Lần đầu tiên trong Cương lĩnh năm 2011 xác định “hội nhập quốc tế” thay cho “hội nhập kinh tế quốc tế”, không chỉ nhằm mở rộng nội hàm hội nhập kinh tế quốc tế, mà hội nhập trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại. Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định quan điểm đó, đồng thời làm rõ hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế phải luôn xác định lợi ích quốc gia - dân tộc là mục tiêu tối thượng, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi.

         - Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. Cương lĩnh năm 2011 khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước”(26). Đây là sự tổng kết có tính khái quát cao về dân chủ, khẳng định bản chất của chế độ ta là dân chủ, là mục tiêu, động lực của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục cụ thể hóa và bổ sung một số nội dung mới: (1) Bổ sung nội dung, phương châm thực hiện dân chủ là “dân giám sát, dân thụ hưởng” thành “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; (2) Xác định rõ hơn mối quan hệ và vai trò giữa “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ”; (3) Khẳng định “đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”27.

         - Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Cương lĩnh năm 2011 khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”12.

Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã xác định rõ vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước. Tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động, “lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”29. Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định.

         - Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Từ khi ra đời đến nay, Đảng luôn coi trọng công tác xây dựng Đảng. Đây là nhiệm vụ then chốt quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Qua mỗi kỳ đại hội, Đảng luôn có sự đánh giá một cách toàn diện những ưu điểm, hạn chế, bài học kinh nghiệm và đề ra phương hướng, nhiệm vụ xây dựng vừa có tính kế thừa vừa có những điểm mới phù hợp với từng giai đoạn. Đại hội lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: “tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”30. Điểm mới so với trước đây là bổ sung “xây dựng hệ thống chính trị” cùng với xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh và không chỉ đề cập đến xây dựng Đảng, mà cả chỉnh đốn Đảng. Đồng thời, bổ sung những nhận thức mới trong nhiệm vụ, giải pháp xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức31.

         Ba là, về các mối quan hệ lớn cần giải quyết

         Các mối quan hệ lớn cần giải quyết trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội được Đảng tổng kết, hệ thống hóa lần đầu tiên trong Cương lĩnh năm 2011. Đó là 08 mối quan hệ: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Đại hội lần thứ XII, Đảng có sự điều chỉnh mối quan hệ “giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa” thành “giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa” nhằm làm rõ hơn trong chủ nghĩa xã hội vẫn tồn tại nền kinh tế thị trường; và bổ sung thêm mối quan hệ “giữa Nhà nước và thị trường”. Hội nghị Trung ương 5 khóa XII đã bổ sung, phát triển thành quan hệ “giữa Nhà nước, thị trường và xã hội”.

         Tại Đại hội lần thứ XIII, Đảng tiếp tục có những nhận thức, bổ sung mới về các mối quan hệ lớn. Đó là điều chỉnh, bổ sung mối quan hệ “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội” thành “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”; điều chỉnh mối quan hệ “giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” thành “giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”; điều chỉnh mối quan hệ “giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” thành “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ”. Đặc biệt, bổ sung thêm mối quan hệ “giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội”32.

         Như vậy, Đảng đã có những điều chỉnh, bổ sung mới từng mối quan hệ một cách chặt chẽ, đầy đủ, thành 10 mối quan hệ lớn cần giải quyết. Đây là sự phản ánh quy luật khách quan, mang tính biện chứng của những vấn đề lý luận cốt lõi trong đường lối đổi mới của Đảng, làm cho “lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa”33.

         Việc xác định những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cho thấy nhận thức của Đảng ta đã tiệm cận tới bản chất của chủ nghĩa xã hội, phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam. Đây là bước phát triển mới về lý luận mang tính đột phá nhằm tiếp tục nghiên cứu để bổ sung, phát triển và làm rõ hơn mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam đang phấn đấu xây dựng.

         Như vậy, đối với Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động vận dụng sáng tạo những bài học kinh nghiệm Cách mạng Tháng Mười Nga nói chung, nhất là bài học về mô hình chủ nghĩa xã hội với các đặc trưng nêu trên là sự thể hiện của sự kết hợp hài hóa cái phổ biến và cái đặc thù, cái chung và cái riêng để tạo nên mô hình có tên gọi: mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam.  Nhận thức của Đảng ta về mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam chính là thành tựu to lớn về tư duy lý luận của Đảng ta trong quá trình lãnh đạo nhân dân ta xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhưng có thể khẳng định rằng, đó là mô hình tổng quát trong thời kỳ quá độ, nhiều đặc trưng mới, cụ thể và phù hợp hơn với thực tiến, với chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản chắc chắn sẽ được Đảng ta tiếp tục bổ sung và hoàn thiện trong thời gian tới. Công cuộc đổi mới đất nước đã và đang thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Những đặc trưng chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng đã thể hiện rõ tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội nói chung, chủ nghĩa xã hội Việt Nam nói riêng.

____________________________________________

         (1) C.Mác và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb CTQG-ST, H., 1995, t.4, tr.472

         (2), (4) C.Mác và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb CTQG-ST, H., 1995, t.22, tr.637, tr.632

         (3), (5) C.Mác và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb CTQG-ST, H., 1995, t.19, tr.434, tr.47

         (6), (7) V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2005, Tập 4, tr.230-231, tr.232

         (8), (9) V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2005, Tập 27, tr. 538, tr.394.

         (10), (13) V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2006, Tập 30, tr.51,tr.60.

         (11), (12) V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2005, Tập 41, tr. 295, tr. 294-295

         (14), (16),(17) V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội,, 2005, tập 43, tr.248, tr.276, tr.280.

         (15)V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội,, 2006, tập 44, tr.11.

         (18)V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb.: CTQG, Hà Nội, 2006, tâp 45, tr.330

         (19)V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb.: CTQG, Hà Nội, 2006, tâp 42, tr.67

         (20), (21), (22), (23), (24), (25), (27), (29), (30), (31), (32) và (33) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.123, 128, 203, 143, 147-148, 157- 158, 175, 180-199, 119 và 103

         (26) và (28) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.84 và 85

 

Tin khác
1 2 3 4 5  ... 
image advertisement
image advertisement
Thống kê truy cập
  • Đang online: 10
  • Hôm nay: 175
  • Trong tuần: 5 188
  • Tất cả: 589876
TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH TRÀ VINH
- Đơn vị quản lý: ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH TRÀ VINH
- Giấp phép thiết lập Trang thông tin điện tử số 09/GP-STTTT-BCXB do Sở Thông tin và Truyền thông cấp ngày 04/12/2015.
- Chịu trách nhiệm chính: Ông Phạm Quốc Thới - Hiệu trưởng Trường Chính trị - Trưởng Ban Biên tập.
- Địa chỉ: xã Hòa Thuận - Châu Thành - Trà Vinh.
- Email: tctttv@travinh.gov.vn - Điện thoại: 02943 844179 Fax: 02943 844664.
Ghi rõ nguồn "Trang thông tin điện tử Trường Chính trị tỉnh Trà Vinh" khi phát hành lại thông tin từ website này