Quan điểm toàn diện theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030

ThS. Lê Thị Thúy An         
                                                                    Giảng viên Khoa Lý luận cơ sở

         Quan điểm toàn diện là quan điểm đánh giá, xem xét sự vật với tất cả các mối liên hệ mà sự vật có nhưng phải tìm ra được mối liên hệ nào là cơ bản, quy định sự tồn tại, vận động của sự vật. Từ đó để có cách nhìn nhận đánh giá đúng bản chất, đúng trọng tâm của sự vật mà không dàn trải. Quan điểm này là một trong những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của triết học Mác - Lênin, giúp con người khắc phục được bệnh phiến diện, chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện trong nhận thức và cải tạo thực tiễn.

         Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng là kết quả của quá trình tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận qua 35 năm Đảng lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước. Hệ quan điểm đó thể hiện rõ trí tuệ, sức sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Văn kiện Đại hội XIII đã thể hiện rất sâu sắc thế giới quan, phương pháp luận biện chứng duy vật, đặc biệt có quan điểm toàn diện trong xây dựng các định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030.

         Trong quá trình lãnh đạo, Đảng ta luôn quán triệt sâu sắc trong xây dựng và thực hiện đường lối chủ, trương phát triển đất nước trong suốt thời kỳ đổi mới. Đặc biệt, trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, quan điểm này được thể hiện rõ nét trong Định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 – 2030, cụ thể như sau:

         Thứ nhất, nhìn nhận, đánh giá toàn diện các mặt, các yếu tố, các lĩnh vực trong tính chỉnh thể, hệ thống để xây dựng đường lối phát triển cho đất nước giai đoạn 2021 – 2030, Đảng ta nhấn mạnh “Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt”1

         Thứ hai, đồng thời với việc xem xét tổng thể các mặt, các lĩnh vực trong tính chỉnh thể, Đảng ta còn đánh giá, xác định vị trí, vai trò của từng lĩnh vực, yếu tố đối với sự phát triển của đất nước. Việc đánh giá này rất quan trọng, giúp cho Đảng ta xây dựng được từng bước đi, lộ trình phù hợp và có biện pháp tác động phù hợp. Điều này thể hiện rõ trong từng nội dung, cụ thể:

         Trong lĩnh vực lĩnh vực kinh tế, Đảng xác định: “Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh”2.

         Trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học - kỹ thuật. Đối với lĩnh vực giáo dục và đào tạo, yêu cầu mới đặt ra trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng là: “Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài”3. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh yêu cầu mới, gắn liền khoa học - công nghệ với những vấn đề, đòi hỏi từ bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển mạnh mẽ. Đồng thời, Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng cũng nhấn mạnh, cụ thể hóa hơn yêu cầu mới cho phát triển khoa học - công nghệ; trong đó, chú trọng đến một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới, cụ thể Đảng xác định: “Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài. Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, chú trọng một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới.”4

         Trong lĩnh vực phát triển văn hóa, con người, Đảng ta quan niệm xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người Việt Nam phát triển toàn diện, không chỉ dừng lại ở đó mà báo cáo chính trị của Đại hội XIII còn nhấn mạnh yêu cầu về phát triển con người gắn kết chặt chẽ với xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đây chính là một bước nhận thức mới của Đảng về mối quan hệ hữu cơ chặt chẽ giữa văn hóa và con người, nhấn mạnh hơn đến vai trò của con người với tính chất là chủ thể và cũng là mục đích của phát triển nền văn hóa, Đảng xác định: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”5.

         Trong lĩnh vực xã hội, Đối với lĩnh vực quản lý phát triển xã hội, cùng với những nội dung nhất quán trong đường lối của Đảng về an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, chính sách người có công, lao động, việc làm, chăm sóc sức khỏe nhân dân, định hướng trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng thể hiện nhận thức mới, nhất quán của Đảng về xây dựng chế độ xã hội tốt đẹp, bảo đảm tự do, công bằng, tiến bộ xã hội, môi trường sống lành mạnh, điều kiện phát triển toàn diện, tốt đẹp cho mỗi người dân; trong đó, chú trọng đến việc xây dựng môi trường văn hóa, đạo đức xã hội lành mạnhkhông ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, Đảng xác định: “Quản lý phát triển xã hội có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội…”6.

         Trong lĩnh vực môi trường, Đảng xác định: “Chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, dịch bệnh; quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên; lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”7.

         Trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh, trong Đại hội XIII việc nhấn mạnh yêu cầu giữ vững an ninh quốc gia nói chung và an ninh, trật tự trên một số lĩnh vực cụ thể là kết quả của sự nhận thức mới của Đảng, xuất phát từ những diễn biến phức tạp của tình hình an ninh thế giới vừa qua, từ những nghiên cứu dự báo về các yếu tố có thể tác động đến tình hình an ninh của nước ta trong thời gian tới, nhất là những vấn đề an ninh phi truyền thống, an ninh trên Biển Đông và an ninh tư tưởng trong đời sống xã hội, cụ thể Đảng xác định: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương. Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố, nguy cơ gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị”8.

         Trong lĩnh vực đối ngoại, Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định những quan điểm đã được xác định tại Đại hội XII là: “Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”9. Cụ thể Đảng xác định: “Tiếp tục thực hiện đường lối đốì ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam”10.

         Trong lĩnh vực phát huy dân chủ, xây dựng khối đại đoàn kết, Định hướng về vấn đề thực hành và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh “Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội”11  . Đây không phải là những yêu cầu mới đặt ra lần đầu, nhưng lâu nay, việc thực thi còn nhiều vướng mắc, hiệu quả thực tế chưa cao. Cùng với những kết quả quan trọng về “thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn và hệ trọng của đất nước”, tôn trọng, bảo vệ “quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân”, tăng cường “dân chủ ở cơ sở”.., trên thực tế vẫn còn tình trạng quyền làm chủ của nhân dân có lúc, có nơi còn bị vi phạm, vẫn còn biểu hiện dân chủ hình thức, tách rời dân chủ với kỷ cương, pháp luật. Đảng xác định:

         Trong lĩnh vực xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đảng xác định: “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước”12.

         Về định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức”13. Đây không chỉ là định hướng, mà còn chính là những giải pháp hợp lý, những yêu cầu mới đặt ra giúp cho việc xây dựng, củng cố, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý xã hội của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Những yêu cầu, giải pháp này không chỉ xuất phát từ tính quy luật chung của việc xây dựng nhà nước pháp quyền, mà còn xuất phát từ tình hình thực tế vừa qua, như Báo cáo chính trị đã đánh giá: “Cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện; vai trò giám sát của nhân dân chưa được phát huy mạnh mẽ”14. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng buông lỏng kỷ luật, kỷ cương; hiệu lực, hiệu quả hoạt động của một số cơ quan chính quyền còn thấp; quyền và lợi ích của người dân có nơi chưa được quan tâm bảo vệ và bảo đảm.

         Trong lĩnh vực xây dựng Đảng, Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng tiếp tục các nhiệm vụ đó và có nội dung mới được bổ sung, làm rõ hơn. Đó là gắn công tác xây dựng Đảng với xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả “Tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện; tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng; đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng,”15. Với trách nhiệm Đảng cầm quyền, vai trò, ý nghĩa, hiệu quả lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ có thể thông qua Nhà nước pháp quyền và hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể nhân dân. Yêu cầu “xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh” chính là đặt Đảng trong cơ cấu thống nhất của hệ thống chính trị, đòi hỏi sự xây dựng đồng bộ các yếu tố tạo thành một hệ thống, trong đó trách nhiệm đầu tiên quyết định thuộc về Đảng.

         Ngoài ra, quan điểm toàn diện trong văn kiện Đại hội XIII tiếp tục thể hiện ở việc nhận thức, đề ra yêu cầu nhận thức và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đây là sự phản ánh các quy luật mang tính biện chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi trong đường lối đổi mới của Đảng. Các mối quan hệ lớn trong văn kiện Đại hội XIII tiếp tục có sự bổ sung, phát triển toàn diện hơn so với các kỳ Đại hội trước, gồm 10 mối quan hệ: quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội”16 .

         Thứ ba, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, bản chất của sự vật chỉ được hình thành, biến đổi và bộc lộ thông qua các mối liên hệ. Vận dụng quan điểm toàn diện trong việc xác định các định hướng chiến lược phát triển đất nước giai đoạn 2021 – 2030, Đảng ta đã đề cập đến tất cả các lĩnh vực của đời sống chính trị, xã hội. Thông qua định hướng phát triển trong từng lĩnh vực ấy cũng đã cho chúng ta thấy những mặt, những mối liên hệ cơ bản, chủ yếu trong chỉnh thể văn kiện của Đảng; khẳng định bản chất tốt đẹp của Đảng và Nhà nước ta, hướng đến xây dựng xã hội với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Những định hướng đó thể hiện quan điểm toàn diện sâu sắc, thể hiện tính nhân văn, khát vọng đem lại sự phồn vinh cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân.

         Nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền, triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nói chung và những định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030 nói riêng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Trong đó, vai trò, trách nhiệm của đội ngũ giảng viên trường chính trị là rất quan trọng, cần phải chủ động, thường xuyên cụ thể hóa những quan điểm của Đảng vào bài giảng, đưa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào cuộc sống. Cụ thể:

         Để thực hiện, trong quá trình giảng dạy, mỗi giảng viên cần phải quán triệt quan điểm toàn diện. Chẳng hạn, hiện nay những kẻ cơ hội và các thế lực thù địch đã và đang dung chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện làm thủ đoạn chống phá cách mạng Việt Nam. Chúng đã lợi dụng những hạn chế, khuyết điểm trong thực hiện chủ trương, chính sách cụ thể để bôi nhọ Đảng, Nhà nước, hạ bệ lãnh tụ, nói xấu đội ngũ cán bộ lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta, đòi đa nguyên, đa đảng, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Vì vậy, đòi hỏi giảng viên trong quá trình giảng dạy phải quán triệt quan điểm toàn diện, khắc phục bệnh phiến diện, chống chủ nghĩa chiết trung, thuật ngụy biện trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.

         Đồng thời quán triệt quan điểm toàn diện yêu cầu giảng viên phải đi vào trọng điểm từng vấn đề, từng nội dung trong chiến lược phát triển đất nước về các lĩnh vực cụ thể như kinh tế, giáo dục, đào tạo, khoa học – công nghệ, văn hóa, con người, môi trường, xây dựng đảng, phát huy dân chủ, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, từ đó giảng viên có cách nhìn nhận toàn diện các vấn đề trong thực tiễn, tránh sự chung chung, hời hợt, dàn đều, tùy theo nội dung để lồng ghép những điểm mới trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào bài giảng nhằm gắn lý luận với thực tiễn góp phần làm cho bài giảng sinh động hơn.

         Bên cạnh đó, mỗi giảng viên luôn tự ý thức nghiên cứu nghiêm túc, sâu sắc, toàn diện nhằm tự mình quán triệt và tổ chức thực hiện theo chức trách, nhiệm vụ; cần đầu tư nghiên cứu có tính hệ thống để cập nhật, bổ sung những điểm mới vào các bài giảng, các bài viết, bài tham luận, có như vậy, nội dung giảng dạy và các sản phẩm khoa học mới có tính cập nhật, gắn lý luận với thực tiễn, góp phần đổi mới và nâng cao chất lượng học tập lý luận chính trị trong tình hình mới.

         Thực tiễn lãnh đạo của Đảng đã chứng minh tính cách mạng, khoa học, sức sống mãnh liệt, giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Chúng ta rất tự hào rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Tiếp tục trên con đường đổi mới đất nước, mỗi cán bộ, giảng viên cần ra sức học tập, vận dụng, phát triển và bảo vệ những giá trị cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tin tưởng vào đường lối lãnh đạo đúng đắn, toàn diện của Đảng, từng bước hiện thực hóa khát vọng phồn vinh, hạnh phúc./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

         (1),(2),(4). Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr 114.

         (3). Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIIISđd, t. I, tr. 115.

         (5),(6). Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr 115, 116.

         (7),(8),(10). Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr 116, 117.

         (9) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIISđd, tr. 79.

         (11),(12),(15). Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr 118, 119.

         (13),(14). Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIIISđd, t. I, tr. 118, 98.

         (16). Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr 119.

Tin khác
1 2 3 4 5  ... 
image advertisement
image advertisement
Thống kê truy cập
  • Đang online: 35
  • Hôm nay: 223
  • Trong tuần: 5 026
  • Tất cả: 584071
TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH TRÀ VINH
- Đơn vị quản lý: ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH TRÀ VINH
- Giấp phép thiết lập Trang thông tin điện tử số 09/GP-STTTT-BCXB do Sở Thông tin và Truyền thông cấp ngày 04/12/2015.
- Chịu trách nhiệm chính: Ông Phạm Quốc Thới - Hiệu trưởng Trường Chính trị - Trưởng Ban Biên tập.
- Địa chỉ: xã Hòa Thuận - Châu Thành - Trà Vinh.
- Email: tctttv@travinh.gov.vn - Điện thoại: 02943 844179 Fax: 02943 844664.
Ghi rõ nguồn "Trang thông tin điện tử Trường Chính trị tỉnh Trà Vinh" khi phát hành lại thông tin từ website này