SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ TRANH THỦ THỜI CƠ KẾT THÚC CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC

ThS. Sơn Thị Thanh Loan

GV. Khoa Xây dựng Đảng

         Ngày 27/1/1973, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết. Mặc dù Mỹ cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam, nhưng vẫn chưa chịu từ bỏ chính sách thực dân mới ở miền Nam, tiếp tục theo đuổi chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, dung túng và cùng với chính quyền Việt Nam Cộng hòa phá hoại Hiệp định Paris. Vì thế, mặc dù Hiệp định Paris đã được ký kết, nhưng cuộc chiến ở Việt Nam chưa kết thúc.

         Trên cơ sở nắm chắc và theo sát mọi hoạt động chính trị, quân sự và ngoại giao của địch, tháng 6/1973, Bộ Chính trị nhận định: Âm mưu lâu dài của đế quốc Mỹ và tay sai là tìm mọi cách xóa bỏ sự tồn tại của chính quyền và quân đội cách mạng để chúng độc chiếm miền Nam, chia cắt lâu dài nước ta, biến miền Nam thành một nước riêng với một chế độ chính trị “quốc gia” thân Mỹ, một nền kinh tế và văn hóa chịu sự chia phối của Mỹ. Đế quốc Mỹ vẫn tiếp tục duy trì một sự cam kết nhất định về quân sự giúp đỡ chính quyền Sài Gòn để cho bọn tay sai đủ sức đứng vững và đối phó với miền Bắc, đồng thời đảm bảo cho Mỹ bám trụ lâu dài ở miền Nam, mà tránh được nguy cơ phải dính líu trực tiếp vào một cuộc chiến tranh mới ở miền Nam1. Còn Chính quyền Sài Gòn chỉ “là công cụ xâm lược của đế quốc Mỹ, chịu sự điều khiển của Mỹ thông qua tòa đại sứ và hệ thống cố vấn Mỹ”2.

         Trong khi đó, cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam, Bộ Chính trị nhận định: “Là một cuộc đấu tranh một mất một còn để giải quyết vấn đề “ai thắng ai” giữa hòa bình với chiến tranh, giữa độc lập dân tộc với chủ nghĩa thực dân mới, giữa dân chủ tự do và độc tài phát xít, giữa hòa hợp dân tộc và thống nhất nước nhà với chia rẽ dân tộc và chia cắt đất nước”3.

         Căn cứ vào thực tiễn tình tình lúc đó, Bộ Chính trị dự đoán hai khả năng:

         Một là, Hiệp định Paris được thi hành từng bước, xung đột quân sự giảm dần, hòa bình được lập lại về cơ bản, đấu tranh chính trị ngày càng phát triển, cách mạng ở thế tiến lên mạnh mẽ.

         Hai là, địch gây chiến tranh trở lại, nhân dân Việt Nam phải tiến hành chiến tranh cách mạng để giành thắng lợi.

         Nhưng dù tình hình phát triển theo khả năng nào, con đường tiến lên giành thắng lợi của cách mạng miền Nam chỉ có thể là con đường bạo lực diễn ra dưới hình thức này hay hình thức khác. Ta phải chuẩn bị sẵn sàng đối phó với khả năng xấu nhất là địch gây lại chiến tranh. Nhưng phương hướng chủ động, tích cực và đúng đắn hiện nay có lợi nhất cho sự nghiệp cách mạng của ta là kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự, ngoại giao, trên cơ sở hành động cách mạng đông đảo quần chúng trong vùng địch kiểm soát, buộc địch thi hành Hiệp định, buộc địch đi vào hòa bình để thắng địch4. Theo đó, đấu tranh thi hành Hiệp định Paris không đơn thuần là đòi thực hiện các điều khoản của Hiệp định, mà vấn đề có ý nghĩa quyết định là tiếp tục làm thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho cách mạng, Bộ Chính trị khẳng định: Đây là khả năng giành thắng lợi không phải thông qua con đường chiến tranh cách mạng mà chủ yếu bằng phong trào đấu tranh cách mạng, bằng hành động cách mạng bạo lực của quần chúng, nhưng cũng phải trên cơ sở giữ vững và củng cố được thế quân sự của ta và tiến công binh vận để đánh bại sự phản kích của địch. Điều quan trọng của Hiệp định Paris không phải ở chỗ thừa nhận hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát, tiến tới thành lập chính phủ ba thành phần, mà mấu chốt là quân Mỹ phải ra, còn quân ta thì ở lại…5.

         Tháng 10/1973, Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp đợt hai, tiếp tục khẳng định con đường bạo lực cách mạng; quân sự, chính trị, ngoại giao vẫn là ba mặt trận chính. Đặc biệt, tận dụng các diễn đàn đấu tranh ngoại giao buộc đối phương phải thi hành Hiệp định Paris, đồng thời chủ động chuẩn bị sẵn sàng cho trường hợp phải tiến hành chiến tranh cách mạng trên khắp chiến trường miền Nam để giành thắng lợi hoàn toàn.

         Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, ngày 15/10/1973, Bộ Chỉ huy các lực lượng vũ trang Giải phóng miền Nam ra lệnh: Kiên quyết giáng trả các hành động chiến tranh của chính quyền Sài Gòn, bất cứ ở đâu bằng các hình thức và lực lượng thích hợp. Chấp hành mệnh lệnh trên, các lực lượng vũ trang giải phóng kiên quyết phản đối và tiến công làm cho quân đội Sài Gòn hao hụt về số lượng, sa sút về tinh thần, lâm vào thế phòng ngự bị động. Trong khi đó, lực lượng cách mạng giữ vững quyền chủ động trên khắp các chiến trường, củng cố và hoàn chỉnh thế chiến lược liên hoàn từ Bắc vào Nam, tăng cường các binh đoàn chủ lực cơ động và bố trí hợp lý trên các chiến trường; cải thiện tình hình nông thôn đồng bằng, phát động phong trào đấu tranh chính trị rộng lớn, đồng thời tranh thủ sự đồng tình ủng hộ quốc tế, cô lập Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa, khoét sâu mâu thuẫn giữa lợi ích toàn cầu với lợi ích cục bộ ở miền Nam của đế quốc Mỹ, mâu thuẫn giữa Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa và mâu thuẫn giữa các thế lực khác nhau trong chính quyền Việt Nam Cộng hòa.

         Công tác tuyên truyền quốc tế được đẩy mạnh. Tháng 1/1974, Bộ Ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công bố Sách Trắng “Một năm thi hành Hiệp định Paris”, tố cáo Hoa Kỳ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa phá hoại có hệ thống Hiệp định, nêu cao thiện chí và quyết tâm của nhân dân Việt Nam, làm rõ trước dư luận thế giới tình hình thực tế ở Việt Nam sau Hiệp định Paris.

         Cuộc đấu tranh thi hành Hiệp định Paris đã nêu cao tính chất chính nghĩa và thiện chí hòa bình của nhân dân Việt Nam, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, đoàn kết của nhân dân thế giới. Cả thế giới thấy rõ Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa phá hoại Hiệp định Paris, là sức cản trở chủ yếu cho việc thực hiện hòa bình và hòa hợp dân tộc ở Việt Nam.

         Như vậy, quá trình Đảng lãnh đạo nhân dân tranh thủ thời cơ đấu tranh thi hành Hiệp định Paris đã làm cho tình hình chiến trường miền Nam, tình hình quốc tế và nước Mỹ đều chuyển biến có lợi cho cách mạng Việt Nam, tạo điều kiện, thời cơ để Đảng lãnh đạo toàn quân và toàn dân tranh thủ thời cơ tiến hành tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Đối với cách mạng Việt Nam, điều quan trọng của Hiệp định Paris là quân đội Hoa Kỳ phải rút, còn lực lượng cách mạng tiếp tục ở lại miền Nam, giữ nguyên thế và lực của cách mạng ở miền Nam để tiến lên hoàn thành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Bộ Chính trị khẳng định: “Quyết tâm của chúng ta là tiến lên giành thắng lợi cuối cùng chứ không bao giờ dừng lại”6.

         Ngày 13/8/1974, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 236, nhấn mạnh yêu cầu đấu tranh trước mắt cần cô lập và đánh đổ Nguyễn Văn Thiệu, chuẩn bị tiến lên giành thắng lợi lớn hơn khi có thời cơ. Đồng thời, Bộ Chính trị cũng chỉ rõ: “Khi thời cơ thuận lợi, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam có thể mở một cuộc tiến công về ngoại giao, đẩy Mỹ - chính quyền Sài Gòn vào chân tường, tranh thủ sự đồng tình của dư luận rộng rãi trong nước và ngoài nước”7. Sau 18 tháng đấu tranh thi hành Hiệp định Paris, bản chất của chính quyền Việt Nam Cộng hòa ngày càng lộ rõ. Khả năng thi hành Hiệp định Paris không còn nữa. Việc xóa bỏ công cụ của chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam là tất yếu.

         Ngày 30/9/1974, Bộ Chính trị họp Hội nghị bàn nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước trong hai năm 1975-1976. Bộ Chính trị đánh giá: Mỹ không có khả năng quay trở lại miền Nam, đồng thời nêu rõ, dù Mỹ có can thiệp trở lại trong chừng mực nào đó thì chúng cũng không thể xoay chuyển được tình thế và ta vẫn thắng. Với tinh thần kiên quyết chớp thời cơ, Bộ Chính trị xác định: Quyết tâm động viên những nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ở cả hai miền, mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy cuối cùng, đưa cuộc chiến tranh cách mạng phát triển đến mức cao nhất, tiêu diệt và làm tan rã hoàn toàn quân đội Việt Nam Cộng hòa, đánh đổ chính quyền Việt Nam Cộng hòa ở Trung ương và các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân, giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thống nhất đất nước8. Bộ Chính trị chỉ rõ: Ngay từ thời điểm này phải tiến hành mọi công việc chuẩn bị thật khẩn trương, tạo điều kiện và cơ sở vật chất đầy đủ nhất để đánh mạnh, đánh nhanh, thắng nhanh và thắng triệt để trong hai năm 1975-1976.

         Ngày 6/1/1975 thị xã Phước Long và toàn tỉnh Phước Long được hoàn toàn giải phóng. Đây được xem là đoàn trinh sát chiến lược để thử phản ứng của Mỹ, qua đó cho thấy Mỹ không có khả năng can thiệp bằng lực lượng quân sự. Đây là cơ sở quan trọng để Bộ Chính trị hạ quyết tâm: Nắm vững thời cơ, mở nhiều chiến dịch tổng hợp liên tiếp, đánh những trận quyết định kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến.

         Trong hai năm 1973-1974, quân đội và nhân dân Việt Nam giành được những thắng lợi lớn trên khắp các chiến trường. Đặc biệt, trong Đông Xuân 1974- 1975, các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ tiêu diệt hàng ngàn đồn bốt. Thế và lực của Mỹ và Chính quyền Việt Nam Cộng hòa bị đẩy vào thế suy yếu, từ đó, Bộ Chính trị thấy rõ hơn thời cơ lịch sử và khả năng thực tế để quyết chiến những trận cuối cùng, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến toàn thắng. Bộ Chính trị quyết định: phải gấp rút chuẩn bị mọi mặt để kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh cứu nước trong năm 1975 hoặc năm 1976.

         Nhiệm vụ kế hoạch tác chiến là nắm vững thời cơ lịch sử, mở nhiều chiến dịch tổng hợp liên tiếp, đánh những trận quyết định. Bộ Chính trị vạch kế hoạch hoạt động năm 1975 cho từng chiến trường: Nam Bộ, Khu V, Tây Nguyên, Trị Thiên và chỉ rõ: Khi có thời cơ sẽ cơ động thêm ba sư đoàn vào miền Đông. Sử dụng hai quân đoàn đánh chớp nhoáng, diệt các sư đoàn chủ lực của địch ở đây rồi thọc vào Sài Gòn. Bộ Chính trị khẳng định: Trận quyết chiến chiến lược này là một sự nghiệp trọng đại, nó sẽ đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đến thắng lợi hoàn toàn, góp phần làm thay đổi cục diện ở Đông Dương, Đông Nam Á, mở ra một bước phát triển mới trong phong trào cách mạng của nhân dân thế giới. Đảng ta quyết làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang đối với dân tộc và nghĩa vụ quốc tế cao cả…chúng ta nhất định đánh thắng9.

         Trong khi xác định kế hoạch hai năm, Bộ Chính trị cũng chỉ rõ: Phải cố gắng cao nhất để thắng lợi trong năm 1975. Để đảm bảo thắng lợi, Đảng chỉ đạo các cơ quan tình báo, quân báo tăng cường nắm tình hình địch; chỉ đạo sự phối hợp, hiệp đồng giữa các cơ quan đơn vị của Bộ Quốc phòng với các cơ quan của Nhà nước để bổ sung tăng cường lực lượng, đảm bảo đầy đủ về nhu cầu vật chất, kỹ thuật cho chiến trường, tuyển thêm 30 vạn quân, đẩy nhanh việc huấn luyện bộ đội, làm thật tốt công tác chính trị, tư tưởng trong quân đội, trong nhân dân, động viên toàn quân, toàn dân nêu cao ý chí “tất cả cho tuyền tuyến, tất cả để đánh thắng”; sử dụng khôn khéo vũ khí đấu tranh ngoại giao, góp phần giương cao ngọn cờ hòa bình, độc lập, hòa hợp dân tộc nhằm cô lập bọn tay sai ngoan cố; làm sáng tỏ chính nghĩa của ta, tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng cách mạng và nhân dân tiến bộ trên thế giới; ngăn chặn âm mưu và thủ đoạn can thiệp, phá hoại của đế quốc Mỹ và phản động quốc tế.

         Thực hiện kế hoạch tác chiến chiến lược của Bộ Chính trị, ngày 9/1/1975, Thường trực Quân ủy Trung ương bàn nhiệm vụ quân sự mùa Xuân năm 1975, xác định hướng tiến công chủ yếu là Tây Nguyên, trọng điểm là Đắk Lắk, mục tiêu then chốt quyết định là Buôn Ma Thuột. Trong phiên họp ngày 18/1/1975, Bộ Chính trị xác định một trong những nhiệm vụ chủ chốt của năm 1975 là theo dõi chặt chẽ, chỉ đạo kịp thời, chi viện đầy đủ đối với sự nghiệp cách mạng miền Nam. Bộ Chính trị có trách nhiệm lãnh đạo chặt chẽ cách mạng miền Nam, các cơ quan nhà nước phải tổ chức thực hiện tốt và kịp thời công tác chi viện miền Nam.

         Ngày 5/2/1975, Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên được thành lập. Với sự chuẩn bị chu đáo về kế hoạch, điều động, phối hợp lực lượng, hiệp đồng tác chiến nhịp nhàng, thực hiện nghi binh tốt, giữ được bí mật, bất ngờ nên quân và dân ta đã giành thắng lợi trong trận Buôn Ma Thuột. Đòn tiến công chiến lược trên chiến trường Tây Nguyên bằng trận điểm huyệt Buôn Ma thuột (10/3/1975) làm rung chuyển mạnh thế bố trí chiến lược của địch trên toàn chiến trường Tây Nguyên, quân đội Việt Nam Cộng hòa tháo chạy hoảng loạn, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và cấp dưới đi đến một quyết định sai lầm về chiến lược là rút lui, bỏ Tây Nguyên. Khi ấy, Bộ Chính trị đã nhận định: thời cơ chiến lược đã chín muồi với thế và lực của cách mạng đã chuẩn bị đầy đủ để đánh đòn quyết định cuối cùng; Quốc hội Mỹ khước từ mọi yêu cầu viện trợ cho Việt Nam Cộng hòa; còn bộ máy điều hành chiến tranh của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lâm vào cảnh hỗn loạn về chính trị, bế tắc về quân sự và liên tiếp mắc những sai lầm về chỉ đạo chiến lược.

         Đặc biệt, ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương họp chỉ ra bốn bất ngờ của chính quyền Sài Gòn khi để mất Tây Nguyên, đó là: Bất ngờ vì không phá được Hiệp định Paris mà còn bị ta kiên quyết đánh bại; bất ngờ về quy mô tác chiến của ta; bất ngờ về hướng tấn công của ta ở Tây Nguyên; bất ngờ vì Tây Nguyên vỡ quá nhanh. Đồng thời, Bộ Chính trị cũng phân tích chiến lược “co để cụm” của Nguyễn Văn Thiệu và khẳng định: địch co cụm sớm hơn ta dự kiến nên chủ trương đánh ngay trong lúc địch co cụm để chúng tiếp tục suy yếu và “hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong năm 1975, quyết định đòn tiến công chiến lược giải phóng Huế, Đà Nẵng và các tỉnh Trung Bộ, không cho quân đội Việt Nam Cộng hòa rút về Sài Gòn, cần phải nắm vững thời cơ, quyết giành thắng lợi càng nhanh càng tốt”, với quyết tâm trên, thực tế cuộc tiến công chiến lược đã chuyển thành cuộc tổng tiến công chiến lược. Như vậy, tiếp theo cuộc họp ngày 11/3, cuộc họp ngày 18/3 là cuộc họp lịch sử, thể hiện khả năng phán đoán và nắm thời cơ cực kỳ nhạy bén của Bộ Thống soái Việt Nam. Như lời của đồng chí Hoàng Văn Thái: “thứ ba tuần trước, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương mới dự kiến là có thể giành thắng lợi sớm hơn thời gian đề ra trong kế hoạch hai năm. Thứ ba tuần này, đã khẳng định: Quyết tâm giành thắng lợi trong năm 1975. Rõ ràng, một trong những nét đặc sắc trong chỉ đạo chiến tranh của Đảng, không chỉ dừng lại ở bước nắm đúng thời cơ, hạ quyết tâm chiến lược đúng đắn, mà khi thời cơ chiến lược xuất hiện nhanh hơn dự kiến, đã kịp thời nắm bắt, chỉ đạo chiến lược sắc bén, kịp thời giành thắng lợi lớn hơn, nhanh hơn”10.

         Ngày 25/3/1975, ngay khi giải phóng Trị - Thiên - Huế,  Bộ Chính trị nhận định: Thời cơ chiến lược lớn đã tới, trong hai mươi năm chống Mỹ, cứu nước chưa bao giờ ta có điều kiện thuận lợi như thế này; cần nắm vững thời cơ, tranh thủ thời gian, tập trung lực lượng vào hướng chủ yếu, hành động táo bạo, bất ngờ làm cho địch không kịp trở tay. Bộ Chính trị quyết định: Hoàn thành giải phóng miền Nam trước mùa mưa. Trong lúc này thời gian là lực lượng. Phải hành động hết sức táo bạo, bất ngờ, làm cho địch không kịp trở tay. Phương châm thần tốc, táo bạo, bất ngờ không chỉ có ý nghĩa về mặt quân sự nhằm tranh thủ thời cơ thuận lợi, mà về mặt đối ngoại, việc thực hiện phương châm này còn có tác dụng ngăn chặn triệt để khả năng can thiệp bằng mọi biện pháp từ bên ngoài, trong bối cảnh quốc tế phức tạp lúc bấy giờ.

         Để đáp ứng những yêu cầu mới về mọi mặt của chiến trường và của vùng giải phóng ngày càng mở rộng, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 241 về việc thành lập Hội đồng chi viện miền Nam ở Trung ương do đồng chí Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch. Hội đồng có nhiệm vụ quyết định những chủ trương, kế hoạch, biện pháp tích cực nhất, hiệu quả nhất nhằm chỉ đạo và kiểm tra đôn đốc các cấp ủy Đảng, chính quyền huy động sức người, sức của thật đầy đủ, kịp thời để đáp ứng mọi yêu cầu của miền Nam trong tình hình mới.

         Ngày 29/3/1975 giải phóng Đà Nẵng, ngày 30/3/1975, Bộ Chính trị quyết định mở cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào sào huyệt cuối cùng của kẻ thù, giải phóng Sài Gòn - Gia Định, giải phóng miền Nam trước mùa mưa. Bộ Chính trị nhấn mạnh, cách mạng Việt Nam "đang phát triển với nhịp độ “một ngày bằng hai mươi năm”, “phải nắm vững thời cơ chiến lược, quyết tâm thực hiện tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất”. Tốt hơn cả là kết thúc và bắt đầu trong tháng 4 năm nay, không để chậm. Phải hành động “thần tốc, táo bạo, bất ngờ”, “phải tiến công ngay lúc địch hoang mang suy sụp”11. Theo đó, Bộ Chính trị chỉ đạo gấp rút tăng cường lực lượng vào hướng Tây Sài Gòn, thực hiện chia cắt và bao vậy chiến lược, triệt hẳn đường số 4, áp sát Sài Gòn. Đồng thời nhanh chóng tập trung lực lượng ở hướng Đông và Đông Nam, đánh chiếm những mục tiêu quan trọng, tổ chức bao vây và cô lập Sài Gòn từ phía Long Khánh, Bà Rịa - Vũng Tàu. Tổ chức sẵn sàng những đơn vị binh chủng hợp thành mạnh để khi thời cơ xuất hiện thì tức khắc đánh chiếm những mục tiêu quan trọng nhất trong thành phố. Để tập trung lực lượng, Bộ Chính trị quyết định điều động Quân đoàn 3 từ Tây Nguyên xuống và đưa Quân đoàn 1 dự bị chiến lược đang đứng chân ở miền Bắc vào chiến trường. Bộ Chính trị cũng quyết định thành lập Bộ Chỉ huy và Đảng ủy Mặt trận Sài Gòn để tập trung, thống nhất cao độ sự lãnh đạo và chỉ đạo đối với chiến trường trọng điểm. Ba Ủy viên Bộ Chính trị trực tiếp tham gia Bộ Chỉ huy chiến dịch là Lê Đức Thọ, Phạm Hùng và Văn Tiến Dũng. Ngày 14/4/1975, theo đề nghị của Bộ Chỉ huy chiến dịch, Bộ Chính trị gửi điện số 37 đồng ý đặt tên cho chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định là chiến dịch Hồ Chí Minh.

              Ngày 21/4/1975, khi các binh đoàn chủ lực của Quân đội nhân dân Việt Nam đã tập trung tới mức áp đảo, hình thành thế bao vây và ngày càng siết chặt quanh Sài Gòn. Ngày 22/4/1975, Bộ Chính trị nhận định: “Thời cơ để mở cuộc tổng tiến công về quân sự và chính trị vào Sài Gòn đã chín muồi. Ta cần tranh thủ từng ngày để kịp thời phát động tiến công. Hành động trong lúc này là đảm bảo chắc chắn nhất để giành thắng lợi hoàn toàn, nếu để chậm sẽ không có lợi về chính trị và quân sự”12. Ngày 26/4/1975 Chiến dịch Hồ Chí Minh mở màn, các binh đoàn chủ lực của Quân đội nhân dân Việt Nam bắt đầu vượt qua các tuyến phòng thủ vòng ngoài để tiến vào nội đô Sài Gòn, chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng hòa lâm vào nguy kịch. Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chỉ thị tiếp tục tổng tiến công vào Sài Gòn theo kế hoạch “với khí thế hùng mạnh nhất, giải phóng và chiếm lĩnh toàn bộ thành phố, tước vũ khí quân đội địch, giải tán chính quyền các cấp của địch, đập tan triệt để mọi sự chống cự của chúng”13.

              11h30 phút ngày 30/4/1975, cờ cách mạng tung tay trên nóc Dinh Độc Lập, chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. Như vậy, trên cơ sở theo sát tình hình, đánh giá đúng so sánh lực lượng và dự báo thời cơ chiến lược và tranh thủ thời cơ của Bộ Chính trị, sự chỉ đạo sắc bén, linh hoạt, kiên quyết của Đảng, Quân đội và nhân dân Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ cuộc đấu tranh trên ba mặt trận: chính trị, quân sự và ngoại giao, tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 với ba đòn tiến công chiến lược: Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng và Sài Gòn - Gia Định, quét sạch cơ đồ chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ, miền Nam hoàn toàn giải phóng, cả nước thống nhất quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.

              Tóm lại, trong suốt quá trình lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), xuất phát từ tư duy nhạy bén trong việc nhận thức thời cơ, tạo thời cơ, tranh thủ chỉ đạo thời cơ, về so sánh lực lượng cách mạng giữa ta và địch, nắm vững quy luật vận động của chiến tranh, từ đó Đảng đã chỉ đạo tranh thủ thời cơ kịp thời, tạo ra những bước ngoặt có ý nghĩa quyết định để thúc đẩy cách mạng phát triển, từng bước thực hiện mục tiêu “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

 


1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 34, tr.147 Nxb CTQG,HN.

2.Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 34, tr.136 Nxb CTQG,HN.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 34, tr.177 Nxb CTQG,HN.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 34, tr.160  Nxb CTQG,HN.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 35, tr.177 Nxb CTQG,HN.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 35, tr.177  Nxb CTQG, HN.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 35, tr.122 Nxb CTQG, HN.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 35, tr.185 Nxb CTQG, HN.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 36, tr.23-33, Nxb CTQG, HN.

10. Hoàng Văn Thái (1985), Những năm tháng quyết định, Nxb QĐND, HN. tr.198

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 36, tr.88-89, Nxb CTQG, HN.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 36, tr.167,  Nxb CTQG, HN.  

13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 36, tr.176, Nxb CTQG, HN.  

 

Tin khác
1 2 3 4 5  ... 
image advertisement
image advertisement
Thống kê truy cập
  • Đang online: 8
  • Hôm nay: 324
  • Trong tuần: 5 527
  • Tất cả: 588845
TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH TRÀ VINH
- Đơn vị quản lý: ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH TRÀ VINH
- Giấp phép thiết lập Trang thông tin điện tử số 09/GP-STTTT-BCXB do Sở Thông tin và Truyền thông cấp ngày 04/12/2015.
- Chịu trách nhiệm chính: Ông Phạm Quốc Thới - Hiệu trưởng Trường Chính trị - Trưởng Ban Biên tập.
- Địa chỉ: xã Hòa Thuận - Châu Thành - Trà Vinh.
- Email: tctttv@travinh.gov.vn - Điện thoại: 02943 844179 Fax: 02943 844664.
Ghi rõ nguồn "Trang thông tin điện tử Trường Chính trị tỉnh Trà Vinh" khi phát hành lại thông tin từ website này