TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC VỚI CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC Ở VIỆT NAM
     Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc, cùng với nội dung độc lập, tự do dân tộc, dân tộc tự quyết, dân tộc gắn với giai cấp, nhân loại; dân tộc với chủ nghĩa xã hội, còn nổi bật lên tư tưởng đại đoàn kết dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc. Người khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” (Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb. CTQG H, 2011,tập 13, tr.119). Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, là nhân tố cơ bản quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, là mục đích, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng cách mạng là điểm xuất phát, sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ đường lối, chủ trương của Đảng. 

Nội dung đại đoàn kết với cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh gồm:

Về đại đoàn kết dân tộc,theo Hồ Chí Minh khẳng định cách mạng là sự nghiệp của toàn thể dân tộc, chứ không phải là công việc của một hai người, mà bao gồm tất cả các giai cấp, tầng lớp khác nhau trong xã hội; bao gồm các dân tộc sống trên lãnh thổ Việt Nam, không phân biệt ngành nghề, các lứa tuổi giới tính; đồng bào các tôn giáo, các đảng phái... Đó là lực lượng trong khối đại đoàn kết rộng lớn, đông đảo và đa dạng đó, liên minh công – nông – trí thức là nền tảng, Người nêu rõ: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác, đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác” (Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb. CTQG H, 2011, tập 9, tr.244).

Hồ Chí Minh khẳng định đoàn kết dân tộc không chỉ dừng lại ở quan niệm, lời kiêu gọi, mà có tổ chức, định hướng và có lãnh đạo đó là Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận phải lấy liên minh công – nông – trí thức làm nền tảng, tập hợp rộng rãi mọi tổ chức và cá nhân yêu nước trong Mặt trận dân tộc thống nhất, do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Để Mặt trận bền vững, lâu dài, thì Liên minh công – nông – trí thức phải vững. Đảng tổ chức và xây dựng Mặt trận bằng việc đề ra chính sách phù hợp với từng thời kỳ cách mạng. Người khẳng định đại đoàn kết phải được xây đựng trên cơ sở thống nhất giữa lợi ích của quốc gia dân tộc với quyền lợi cơ bản của các giai tầng trong xã hội. Người đưa ra chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là chìa khóa vạn năng, điểm hội tụ thắng lợi của chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh. Tất cả các dân tộc trên thế giới đều bình đẳng, có quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc, một nước độc lập mà dân không có được tự do, hạnh phúc thì chẳng có ý nghĩa gì.

Trong đại đoàn kết dân tộc là phải tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của nhân dân, đoàn kết một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo; đoàn kết phải chân thành, thẳng thắn, thân ái; đoàn kết lâu dài, chặt chẽ; đoàn kết phải gắn với tự phê bình và phê binh. Hồ Chí Minh cho rằng: Dân là gốc rễ, là nền tảng là chủ thể của đại đoàn kết. Dân là nguồn sức mạnh vô tận, vô địch của khối đại đoàn kết. Dân là chỗ dựa vững chắc của Đảng Cộng sản và hệ thống chính trị. Người cho rằng, trong đoàn kết có đấu tranh, đấu tranh để củng cố đoàn kết. “Đoàn kết thật sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân” (Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb. CTQG H, 2011, tập 11, tr.362). Để củng cố nội bộ, củng cố tổ chức, tăng cường khối đại đoàn kết phải thực hiện tự phê bình và phê bình, từ đó khắc phục, sửa chữa những khuyết điểm, đồng thời phát huy những ưu điểm. Tự phê bình và phê bình phải dân chủ, chân thành, thẳng thắn, thân ái, phải có lý, có tình, phê bình việc chứ không phê bình người.

Theo Hồ Chí Minh, muốn xây dựng thành công khối đại đoàn kết thì phải có phương pháp tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng để mọi người thấy được sự cần thiết của đoàn kết. Cần phải có phương pháp tổ chức khoa học như xây dựng, củng cố, phát triển hệ thống chính trị, bao gồm: Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Phải xây dựng Nhà nước thật sự là của dân, do dân, vì dân; phải không ngừng cải cách bộ máy hành chính và hoàn thiện pháp luật, đề ra chính sách thực hiện đại đoàn kết đáp ứng nguyện vọng của nhân dân và phù hợp với thực tiễn.

Về đại đoàn kết quốc tế, nhận thức sâu sắc tính chất của thời đại mới mở đầu từ Cách mạng Tháng Mười Nga, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh khẳng định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Người nhận định: cách mạng Việt Nam chỉ có thể giành được thắng lợi khi có sự ủng hộ, đoàn kết và giúp đỡ của các lực lượng ở trong nước với lực lượng hòa bình độc lập dân chủ trên thế giới. Đồng thời, khi cách mạng Việt Nam giành thắng lợi đã đóng góp một phần quan trọng vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới. Đoàn kết dân tộc là cơ sở để thực hiện đoàn kết quốc tế.

Hồ Chí Minh xác định đối với lực lượng đoàn kết quốc tế không phân biệt, lực lượng bao gồm: phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; phong trào giải phóng dân tộc; phong trào hòa bình, dân chủ và tiến bộ trên thế giới. Có cùng chung kẻ thù, chung khát vọng là độc lập, tự do cho dân tộc, những lực lượng nhân dân yêu chuộng hòa bình, công lý trên thế giới. Đối với các nước xã hội chủ nghĩa anh em, Hồ Chi Minh xây dựng trên tinh thần “Bốn phương vô sản đều là anh em”, xây dựng Liên minh hữu nghị hợp tác và tương trợ với các nước.

Nguyên tắc thực hiện đại đoàn kết quốc tế, theo Người phải dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Xây dựng tình đoàn kết hữu nghị hợp tác, cùng phát triển với các dân tộc và giai cấp vô sản các nước trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản.

Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh, trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đại đoàn kết đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong đường lối chiến lược của Đảng cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đại đoàn kết đã thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm của tất cả mọi người Việt Nam yêu nước, biến thành hành động cách mạng, thành sức mạnh vô địch trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Về cách mạng giải phóng dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cuối thế kỷ XIX thực dân Pháp xâm lược và đặt ách thống trị ở nước ta, biến nước ta thành một nước nữa thuộc điạ nữa phong kiến, lúc này xã hội Việt Nam có hai mâu thuẫn lớn: mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc thực dân và bọn tay sai; mâu thuẫn giữa nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến. Như vậy, mâu thuẫn chủ yếu của các nước thuộc địa lúc bây giờ là mâu thuẫn dân tộc nên nhiệm vụ hàng đầu là giải phóng dân tộc. Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là chống đế quốc giành độc lập dân tộc. Như vậy cách mạng giải phóng dân tộc là cách mạng nhằm đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, giành độc lập cho dân tộc và thiết lập chính quyền của nhân dân. Để thực hiện thành công, mục tiêu nhiện vụ của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới theo Hồ Chí Minh cần phải:

Thứ nhất, cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành thắng lợi triệt để phải đi theo con đường cách mang vô sản. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX tình hình thế giới thay đổi, chủ nghĩa đế quốc ra đời và chúng cấu kết với nhau tiến hành xâm lược, cai trị, áp bức bóc lột và nô dịch dân tộc thuộc địa. Năm 1917, với thắng lợi Cách mạng Tháng Mười Nga, thời đại mới được mở ra đó là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy, từ thực tiễn thành công cách mạng Nga chứng minh chính sự đoàn kết của giai cấp Vô sản dưới sự lãnh đạo thống nhất của phong trào cách mạng thế giới, cách mạng giải phóng dân tộc mới giành thắng lợi. Theo Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam phát triển góp phần quan trọng vào phát triển chung của cách mạng thế giới. Trên thế giới chỉ có cách mạng Nga là cuộc cách mạng đến nơi đến chốn, nhắc nhở chúng ta muốn cách mạng thành công phải lấy dân làm gốc. Người khẳng định, muốn cứu nước, giải phóng dân tộc thì cách mạng Việt Nam phải đi theo con đường Cách mạng vô sản, theo cách mạng Nga, theo chủ nghĩa Mác – Lênin “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” (Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb. CTQG H, 2011, tập 9, tr.30).

Thứ hai, cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành thắng lợi phải do đảng Cộng sản lãnh đạo. Người nói “Cách mệnh trước hết phải có đảng cách mệnh... Đảng có vững cách mệnh mới thành công... Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm nòng cốt... Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin” (Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG H. 2011, tập 2, tr.289). Như vậy, theo Người cách mạng phải do đảng cộng sản lãnh đạo, từ đó xác định mục tiêu, xây dựng đường lối, xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất, tập hợp lực lượng chống đế quốc chống phong kiến, giành độc lập dân tộc, mang lại hạnh phúc và tự do cho nhân dân.

Thứ ba, cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết toàn dân, trên cơ sở liên minh công nông làm nòng cốt. Nguyễn Ái Quốc viết “là việc chung của cả dân chúng chứ không phải việc một hai người” (Hồ Chí Minh, Nxb. CTQG H, 2011, tập 2, tr.283). Vì vậy, phải tập hợp, đoàn kết toàn dân, sĩ, nông, công, thương, nhưng vẫn không quên nhắc nhở cái cốt vẫn là công – nông Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Công nông là người chủ cách mệnh... Công nông là gốc cách mệnh” (Hồ Chí Minh, Nxb. CTQG H, 2011, tập 2, tr.288). Nông dân luôn có ý thức và sẵn sàng tham gia cách mạng, vì trong xã hội họ là những người chịu nhiều tầng áp bức, bị bần cùng hóa, và cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp toàn dân nên phải có sự tham gia của họ. Mặc dù vai trò, sứ mệnh của giai cấp nông dân được đánh giá cao, nhưng Người khẳng định giai cấp lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân. Nên Đảng phải xây dựng liên minh công nông làm nòng cốt, ngoài ra Người còn tập hợp rộng rãi các tầng lớp khác, huy động toàn dân tộc vào cách mạng giải phóng dân tộc. Trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lê nin, Người đã vận dụng sáng tạo quan điểm tổ chức, tập hợp xây dựng lực lượng và tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta giành thắng lợi.

Thứ tư, cách mạng giải phóng dân tộc cần tiến hành chủ động sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Trong Những luận cương về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nữa thuộc địa, được thông qua tại Đại hội ngày 1/9/1928, có viết: “Chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vô sản giành thắng lợi ở các nước tiên tiến” (Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. CTQG H, 2003, tập 2, tr.78). Người dựa vào sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới, căn cứ vào vào thực tiễn của cách mạng Việt Nam và đi đến khẳng định cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước. Và thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở nước ta chứng minh luận điểm của Người là đúng đắn.

Thứ năm, cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị của quần chúng với đấu tranh vũ trang; khởi nghĩa toàn phần, tiến tới tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn. Căn cứ vào tình hình cách mạng thế giới và thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng cách mạng Việt Nam phải tiến hành cách mạng bằng bạo lực kết hợp vũ trang với đấu tranh chính trị của quần chúng. Cuối thế kỷ XIX đầu XX đa số các phong trào yêu nước ở Việt Nam chủ yếu bằng con đường cải lương, đấu tranh hợp pháp, đấu tranh bằng phương pháp hòa bình. Các phương pháp vũ trang bạo động, vũ trang ám sát theo khuynh hướng dân chủ tư sản cũng đều bị thất bại. Ngược lại, Hồ Chí Minh thực hiện rất linh hoạt và hiệu quả quan điểm trên, trong đó vấn đề xây dựng lực lượng, vấn đề chọn thời cơ khởi nghĩa. Học thuyết của Lênin về cách mạng thuộc địa được Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển một cách sáng tạo. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, thành công của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đã chứng minh tính đúng đắn, khoa học và sáng tạo của Người vào cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.

Ở đây, Hồ Chí Minh đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa vấn đề dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, độc lập cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc, quam điểm Người thể hiện vừa mang tính khoa học đúng đắn, vừa có tính chất cách mạng sâu sắc về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc. Điều đó hoàn toàn phù hợp với nhận định Ph. Ăngghen: “Những tư tưởng dân tộc chân chính trong phong trào công nhân bao giờ cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính” (Song Thành, Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb. LLCT, 2005, tr.116).

Hiện nay, để thực hiện thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đảng và nhà nước ta không ngừng thực hiện và phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, không những phát huy tinh thần đoàn kết dân tộc, phát huy nội lực của dân tộc mà còn mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, Việt Nam muốn làm bạn và là đối tác tin cậy với tất cà các nước trong cộng đồng quốc tế vì hòa bình, hợp tác và phát triển. Sự nghiệp đổi mới là sự nghiệp của dân, do dân, và vì dân, cho nên mọi chủ trương chính sách của Đảng ta điều xuất phát từ dân, dựa vào dân, do đó cần phải phát triển nguồn lực này, phải đào tạo ra đội ngũ cán bộ tốt có trình độ năng lực, phẩm chất đáp ứng với yêu cầu đó. Như vậy vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta phải coi đại đoàn kết toàn dân là nhiệm vụ vô cùng cần thiết để phát triển đất nước.

                                                                                               ThS. Lê Thị Thúy An

                                                                                               Giảng viên khoa Lý luận cơ sở

 

Tin khác
1 2 3 4 5  ... 
image advertisement
image advertisement
Thống kê truy cập
  • Đang online: 4
  • Hôm nay: 45
  • Trong tuần: 5 035
  • Tất cả: 584733
TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH TRÀ VINH
- Đơn vị quản lý: ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH TRÀ VINH
- Giấp phép thiết lập Trang thông tin điện tử số 09/GP-STTTT-BCXB do Sở Thông tin và Truyền thông cấp ngày 04/12/2015.
- Chịu trách nhiệm chính: Ông Phạm Quốc Thới - Hiệu trưởng Trường Chính trị - Trưởng Ban Biên tập.
- Địa chỉ: xã Hòa Thuận - Châu Thành - Trà Vinh.
- Email: tctttv@travinh.gov.vn - Điện thoại: 02943 844179 Fax: 02943 844664.
Ghi rõ nguồn "Trang thông tin điện tử Trường Chính trị tỉnh Trà Vinh" khi phát hành lại thông tin từ website này