GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC TỈNH TRÀ VINH GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Sơn Thị Thanh Loan 
                                                                             Khoa Xây dựng Đảng

          Cha ông ta, từ xa xưa luôn coi trọng hiền tài, xem hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết.

         Năm 1945, ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, trên cương vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiến hành việc “Tìm người tài đức”, bởi theo Người “Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài”[1].

         Kế thừa truyền thống của cha ông và quán triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhất là trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đặt con người vào vị trí trung tâm, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII nêu rõ: “Nguồn lực quý báu nhất, có vai trò quyết định nhất là nguồn lực con người Việt Nam; là sức mạnh nội sinh của chính bản thân dân tộc Việt Nam. Con người Việt Nam là tài sản quý báu nhất của Tổ quốc ta và chế độ xã hội chủ nghĩa chúng ta”[2].

         Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (năm 2011), Đảng ta nhấn mạnh: “Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh, bền vững đất nước”[3].

         Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (năm 2016), Đảng tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của nguồn nhân lực, nhất là “nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu…”[4] của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức.

         Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (năm 2021), Đảng ta xác định: “Một trong ba đột phá chiến lược đó là phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt”[5].

         Những quan điểm trên đây là những nhận định nhằm khẳng định tầm quan trọng của nguồn lực con người – nguồn nhân lực trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam từ xưa đến nay.

         Con người khi được tiếp cận dưới dạng một nguồn lực - nguồn lực con người hay nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng cấu thành của lực lượng sản xuất xã hội, là năng lực nội sinh chi phối các nguồn lực khác, đặc biệt quyết định sức mạnh của một quốc gia, một ngành kinh tế hoặc một địa phương. Trong bối cảnh hiện nay với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, kinh tế tri thức, cách mạng công nghiệp lần thứ tư và toàn cầu hoá, thì vấn đề phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao càng trở nên quan trọng.

         Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn nhân lực đối với sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương, trong thời gian qua, các cấp ủy, chính quyền tỉnh Trà Vinh đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, từ đó nguồn nhân lực của Tỉnh không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng với những kết quả đạt được như: lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật từ đại học trở lên tăng gấp 3 lần so với năm 2009; từ năm 2017 đến năm 2020, tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 45% tăng lên 65% (trong đó tỷ lệ lao động có bằng cấp, chứng chỉ đạt 31,2%); cơ cấu lao động chuyển dịch hợp lý, tỷ lệ lao động khu vực nông – lâm – ngư nghiệp giảm từ 45,26% còn 44,5%; công nghiệp xây dựng tăng từ 19,68% lên 24,1% và dịch vụ từ 35,06% còn 31,4%; trình độ đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức được nâng lên (trung cấp từ 17,5% giảm còn 11,16%; cao đẳng từ 15,75% tăng lên 16,27%; đại học từ 62,26% tăng lên 63,58% và sau đại học từ 2,67% tăng lên 6,81%); chất lượng giáo dục đại học trên địa bàn Tỉnh được nâng cao, đổi mới theo xu hướng phát triển giáo dục đại học trong nước và trên thế giới, đến cuối năm học 2019-2020, toàn tỉnh có 12.267 học viên, sinh viên đang theo học tại các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học, bình quân 121,64 học viên, sinh viên/ vạn dân; cơ cấu, tỷ lệ sinh viên đại học có sự dịch chuyển tích cực từ 71,17% tăng lên 83,91% (tỷ lệ sinh viên đại học tăng bình quân 5,59%)…

         Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, nguồn nhân lực của Tỉnh vẫn còn bộc lộ nhiều khó khăn, hạn chế như: chất lượng nguồn nhân lực vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế, lực lượng lao động còn hạn chế năng lực thực hành ứng dụng công nghệ cao vào quá trình lao động; công tác tổ chức đào tạo nghề chưa theo kịp yêu cầu nâng cao năng suất lao động, chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế; lao động qua đào tạo phần lớn là dạy nghề ngắn hạn, trình độ trung cấp và cao đẳng nghề còn thấp; thiếu lao động lành nghề, thiếu chuyên gia đầu ngành và chuyên gia kỹ thuật giỏi; cơ cấu bậc đào tạo chưa đạt theo quy hoạch phát triển nhân lực…

         Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế là do: Tỉnh chưa có chiến lược phát triển nguồn nhân lực toàn diện và dài hạn để định hướng các cơ quan, đoàn thể cùng phối hợp hành động; một số cấp ủy, chính quyền chưa quan tâm đúng mức đến công tác đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; việc cụ thể hóa mục tiêu quy hoạch phát triển nhân lực còn theo số lượng, chưa chú ý đến chất lượng, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Hệ thống giáo dục từ cấp phổ thông đến đào tạo nghề, đại học, sau đại học còn bộc lộ nhiều hạn chế; khả năng tiếp cận thị trường và cạnh tranh việc làm của lao động còn yếu; cơ cấu ngành nghề và bậc đào tạo chưa hợp lý; nhận thức về tầm quan trọng của học nghề, dạy nghề của các cấp, các ngành và tầng lớp nhân dân chưa cao; xã hội hóa giáo dục và đào tạo còn chậm. Đầu tư cho giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực chưa đáp ứng, cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy nghề còn thiếu. Đội ngũ giáo viên trong các cơ sở đào tạo nghề thiếu về số lượng và yếu về chất lượng chuyên môn.

         Trên cơ sở những nhận định về thực trạng nguồn nhân lực của địa phương cũng như nhằm quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện kịp thời, nghiêm túc nội dung về đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020 - 2025 với chỉ tiêu cụ thể là đến năm 2025, có từ 25% đến 35% cán bộ, công chức, viên chức lãnh đạo, quản lý từ cấp phòng trở lên dưới 40 tuổi có trình độ sau đại học; phát triển đội ngũ cán bộ khoa học ở những lĩnh vực có thế mạnh của tỉnh (nông nghiệp, thủy sản, công nghệ…), tạo bước đệm để đến năm 2030 đội ngũ cán bộ khoa học của Tỉnh đạt tỷ lệ chung của cả nước, với ít nhất 11 người/ vạn dân. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 70%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo làm việc trong các lĩnh vực công nghệ, dịch vụ trình độ cao và trong các ngành công nghiệp dịch vụ trọng điểm của tỉnh đạt từ 70% - 75%.... Ban Thường vụ tỉnh ủy Trà Vinh đã xây dựng và ban hành chương trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tỉnh Trà Vinh giai đoạn 2021 – 2025, định hướng đến năm 2030, với các quan điểm chỉ đạo như sau:

         Một là, quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện kịp thời, nghiêm túc nội dung về đạo tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020 - 2025, thúc đẩy phát triển toàn diện và bền vững, ddauw Trà Vinh trở thành tỉnh phát triển trong nhóm đầu khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.

         Hai là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ thực tiễn bảo đảm hài hòa, hợp lý, gắn kết chặt chẽ giữa nâng cao chất lượng dân số, bảo đảm sức khỏe, giáo dục và đào tạo, dạy nghề với tạo việc làm, quản lý và sử dụng nhân lực nhằm thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hôi của tỉnh.

         Ba là, phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị, trực tiếp là các cấp ủy, tổ chức đảng và vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, trước hết là người đứng đầu.

         Quán triệt quan điểm chỉ đạo trên, nhằm thực hiện có hiệu quả và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tỉnh Trà Vinh trong thời gian tới cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

         Thứ nhất, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

         Theo đó, cần tăng cường công tác lãnh đạo, quản lý của các cấp ủy và chính quyền địa phương, sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp các ngành, các tổ chức chính trị - xã hội, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể, nhất là đề cao tính tiên phong, gương mẫu của bí thư cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu các cấp. Chú trọng công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực góp phần tích cực phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng, thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động ở mỗi cấp, mỗi ngành, cán bộ, hội viên, đoàn viên và các tầng lớp nhân dân, trọng tâm là nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và thế hệ trẻ. Thường xuyên quán triệt các chủ trương của Đảng và có kế hoạch cụ thể hóa các nhiệm vụ, giải pháp về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh; trong đó, phải thường xuyên rà soát, đánh giá thực trạng chất lượng nguồn nhân lực của ngành, địa phương, nhất là các lĩnh vực trọng yếu, dự báo nhu cầu; xác định nhu cầu đào tạo, tiếp nhận và bố trí, sử dụng cán bộ qua đào tạo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của từng đơn vị, địa phương.

         Thứ hai, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong hệ thống chính trị  

         Để  nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong hệ thống chính trị, trước tiên cần xây dựng cơ chế, chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức gắn với việc bố trí, sử dụng và phát huy năng lực theo vị trí việc làm. Cũng như cần có cơ chế, chính sách đặc thù để thúc đẩy cán bộ, công chức, viên chức nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ và đổi mới sáng tạo, nâng cao trách nhiệm thật sự là động lực của tăng trưởng kinh tế, tạo bứt phá nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc. Hoàn thiện, đổi mới phương pháp quản lý, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động quản lý về phát triển nguồn nhân lực, chú trọng quản lý môi trường làm việc, chính sách việc làm, thu nhập, bảo hiểm, bảo trợ xã hội, điều kiện nhà ở và các điều kiện sinh sống, định cư, nhất là các chính sách tuyển dụng, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và phát triển nhân tài của tỉnh. Hàng năm, xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội chú trọng phát triển nguồn nhân lực theo hướng giảm dần lao động chưa qua đào tạo; điều chỉnh công tác đào tạo nghề, cơ cấu lại giáo dục nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu thực tế, linh hoạt, thiết thực, hiệu quả. Xây dựng và sắp xếp lại đội ngũ giảng viên, giáo viên các cấp từ phổ thông đến cao đẳng, đại học đạt chuẩn trở lên về trình độ đào tạo, tạo điều kiện cho giáo viên có cơ hội được trải nghiệm thực tế, thu hút người giỏi có tay nghề cao tham gia công tác dạy nghề. Thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức đạt tiêu chuẩn quy định về chuyên môn, nghiệp vụ và lấy lý luận chính trị theo hướng coi trọng phẩm chất và năng lực thực tế đáp ứng công việc theo vị trí việc làm. Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, rèn luyện đạo đức cách mạng; khắc phục hạn chế, khuyết điểm được chỉ ra qua kiểm điểm, tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII).

         Tiếp theo, để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cần đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực theo từng ngành, lĩnh vực. Cụ thể

         Đối với ngành y tế cần quan tâm phát triển kỹ năng và năng lực chuyên môn cho đội ngũ cán bộ, chuyên gia y tế. Đẩy mạnh thực hiện cơ chế tự chủ trong các đơn vị sự nghiệp ngành y tế. Khuyến khích, huy động các nguồn lực xã hội tham gia đầu tư các loại hình đào tạo và các cơ sở khám chữa bệnh. Xây dựng chính sách thu hút, đãi ngộ nguồn nhân lực chất lượng cao ngành y tế nhằm thu hút đội ngũ chuyên gia y tế giàu kinh nghiệm và năng lực khám, chữa bệnh trong và ngoài nước về công tác tại các cơ sở y tế thuộc tỉnh.

         Đối với giáo dục, cần mở rộng giáo dục mầm non, phổ cập giáo dục tiểu học và THCS với chất lượng ngày càng cao, khuyến khích học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập, tích cực thực hiện đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, sách giáo khoa phổ thông đi đôi với đổi mới hình thức kiểm tra, thi và đánh giá kết quả giáo dục và đào tạo. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài, đào tạo nhân lực ứng dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật, công nghệ thông tin, công nghệ số trong giáo dục và đào tạo hướng đến phát triển kinh tế tri thức.

         Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục từ mầm non đến phổ thông là nền tảng vững chắc và quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực cho tỉnh nhằm thực hiện chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

         Tiến hành đồng bộ việc thực hiện đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, đào tạo và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục các cấp, đảm bảo 100% nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục các trường học, cơ sở giáo dục trong tỉnh (giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông) có trình độ đạt chuẩn và trên chuẩn phù hợp với quy định của Luật Giáo dục; phát triển toàn diện sự nghiệp giáo dục và đào tạo đúng định hướng và có hiệu quả, góp phần tích cực nâng cao chất lượng đào tạo nguồn  nhân lực đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục và đào tạo.

         Đầu tư phát triển cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học theo hướng dẫn đồng bộ, chuẩn hóa, tiên tiến và từng bước hiện đại hóa, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông; chú trọng giáo dục phẩm chất, nhân cách, đi đôi với đào tạo năng lực nhận thức, tư duy đổi mới, sáng tạo cho người học.

         Đối với giáo dục đại học, cao đẳng cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất ưu tiên cho các cơ sở đào tạo ngành nghề kỹ thuật cao, nâng cao chất lượng đào tạo theo tiêu chuẩn kiểm định trong khu vực ASEAN đối với các ngành nghề có nhu cầu nhân lực trình độ cao, đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực để tiếp thu và làm chủ công nghệ tiên tiến. Từng bước áp dụng các mô hình quản trị nhà trường tiên tiến hướng tới xây dựng trường đại học, cao đẳng thuộc tỉnh theo chuẩn tiên tiến.

         Tăng cường việc phát hiện bồi dưỡng năng khiếu, nhân tài lĩnh vực văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao từng bước xây dựng đội ngũ diễn viên, vận động viên văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao ngang tầm khu vực, quốc tế.

         Phân bổ và sử dụng hợp lý ngân sách Nhà nước dành cho đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực trong hệ thống chính trị đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030. Đẩy mạnh xã hội hóa bằng cơ chế, chính sách để huy động các nguồn vốn đóng góp cho đầu tư phát triển nguồn nhân lực với các hình thức như: trực tiếp đầu tư xây dựng cơ sở giáo dục, đào tạo, cơ sở y tế, văn hóa, thể dục, thể thao; huy động, phát huy vai trò, sự đóng góp của doanh nghiệp tạo cơ chế phù hợp để thu hút các nguồn vốn hình thành quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển nguồn nhân lực.

         Thứ ba, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong lực lượng lao động xã hội

         Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong lực lượng lao động xã hội cần đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng thu hút lực lượng lao động, cán bộ khoa học và công nghệ, đặc biệt là nhân lực có trình độ chuyên môn cao. Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, công nghệ trong các doanh nghiệp; tạo cơ chế tăng cường liên kết doanh nghiệp với các viện nghiên cứu, trường Đại học, lấy doanh nghiệp làm trung tâm, trường đại học và viện nghiên cứu là chủ thể nghiên cứu mạnh.

         Bên cạnh đó cần có cơ chế, chính sách đặc thù thúc đẩy, khuyến khích khu vực tư nhân đầu tư cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, ứng dụng chuyển giao công nghệ và khởi nghiệp, đáp ứng yêu cầu thật sự là động lực chính của tăng trưởng kinh tế.

         Công tác dạy nghề cũng cần được đổi mới, mở rộng ngành nghề, tăng số lượng và hiệu quả đào tạo đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động của thị trường; phát triển dạy nghề gắn với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thực hiện hiểu quả chủ trương đẩy mạnh phân luồng sau trung học cơ sở, định hướng nghề nghiệp sau trung học phổ thông.

         Đẩy mạnh hợp tác giữa các đơn vị trong nước và nước ngoài về chương trình, giáo viên, công nghệ, thiết bị đào tạo… nhằm bổ sung thế mạnh giữa các đơn vị, nâng cao kết quả và chất lượng đào tạo đảm bảo tính thiết thực đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp. Triển khai chương trình đào tạo khởi nghiệp, nâng cao năng lực lập kế hoạch và quản lý hoạt động sản xuất - kinh doanh cho đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp.

         Hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, chú ý hỗ trợ đối tượng doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp mới khởi nghiệp. Tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tổ chức bồi dưỡng người lao động học tập nâng cao kỹ năng nghề nghiệp, tác phong lao động công nghiệp, tiếp cận với máy móc công nghệ cao; nâng cao nhận thức chính trị, kiến thức pháp luật để người lao động hiểu rõ hơn đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; ý thức rõ hơn nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của công dân.

         Hiện nay, khi đất nước ta đang bước vào giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiếp cận kinh tế tri thức trong điều kiện sự phát triển kinh tế - xã hội chưa cao thì yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực có ý nghĩa quyết định tới sự thành công của sự nghiệp đổi mới. Nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực có chất lượng cao với yếu tố hàng đầu là trí tuệ, chất xám, với số lượng và cơ cấu hợp lý, giàu ý chí và khát vọng với lý tưởng cách mạng soi sáng, sẽ là động lực để sớm đưa Trà Vinh trở thành tỉnh phát triển trong nhóm đầu khu vực Đồng bằng sông Cửu Long theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020 - 2025.

         Tài liệu tham khảo:

         Tỉnh ủy Trà Vinh: Chương trình số 11-CTr/TU ngày 26/3/2021 của BTV tỉnh ủy Trà Vinh “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tỉnh Trà Vinh giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030”.  



         [1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.114.

         [2] Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 93

         [3] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 41.

         [4] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 90

         [5] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập 1. H. NXB Chính trị quốc gia sự thật, năm 2021, tr. 203, 143

image advertisement
image advertisement
Thống kê truy cập
  • Đang online: 21
  • Hôm nay: 634
  • Trong tuần: 5 837
  • Tất cả: 589155
TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH TRÀ VINH
- Đơn vị quản lý: ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH TRÀ VINH
- Giấp phép thiết lập Trang thông tin điện tử số 09/GP-STTTT-BCXB do Sở Thông tin và Truyền thông cấp ngày 04/12/2015.
- Chịu trách nhiệm chính: Ông Phạm Quốc Thới - Hiệu trưởng Trường Chính trị - Trưởng Ban Biên tập.
- Địa chỉ: xã Hòa Thuận - Châu Thành - Trà Vinh.
- Email: tctttv@travinh.gov.vn - Điện thoại: 02943 844179 Fax: 02943 844664.
Ghi rõ nguồn "Trang thông tin điện tử Trường Chính trị tỉnh Trà Vinh" khi phát hành lại thông tin từ website này